Bùi Văn Giải
Nói
đến Quảng Trị mà không nói đến La Vang là
một điều thiếu sót. Bởi v́ ít ai là dân
Quảng Trị mà không nghe nói đến địa danh La
Vang. Không những thế, La Vang đă là nơi mà
từ Bắc chí Nam nhiều người biết
đến, không chỉ là người Công Giáo mà cả
đồng bào ngoài Công Giáo nữa. Ngày nay, trên
thế giới nhiều người cũng biết
đến La Vang. Ở đất
Mỹ cũng đă có những ngôi nhà thờ lấy danh hiệu
Đức Mẹ La Vang.
Người lănh
đạo Giáo Hội Công Giáo La Mă: Đức Gioan Phaolô II
cũng đă nói đến linh địa La Vang sau buổi
phong thánh cho 117 vị Tử Đạo Việt Nam vào ngày 19-06-1988,
ở quảng trường Thánh Phêrô La Mă, trong buổi
đọc kinh truyền tin, Ngài đă ngỏ lời
với Giáo Hội Toàn Cầu v́ sự hiện ra của
Đức Mẹ tại La Vang năm 1798... Vào ngày 28-11-1992,
trong buổi triều yết chung cho các phái đoàn Công Giáo
khắp nơi về Rôma, lại một lần nữa
Đức Gioan Phaolô II đề cập đến đền
thờ Đức Mẹ La Vang thuộc Giáo Phận Huế.
Đặc biệt, sau khi chủ tế thánh lễ bế
mạc đại hội giới trẻ vào chiều
15-08-1993 tại Denver (Hoa Kỳ), Đức Gioan Phaolô II đă
ưu ái dành một giờ để tiếp xúc riêng
với khoảng 20,000 bạn trẻ và người
Việt Nam ở Hải Ngoại đang có mặt tại
Denver. Dịp này Ngài đă gởi cho toàn
thể giới trẻ, Giáo Hội và dân tộc Việt Nam một thông
điệp.
Trong phần cuối cùng của thông điệp Ngài đă
nói đến Đức Mẹ La Vang: "Tôi xin phó thác toàn
thể cộng đồng Công Giáo Việt Nam dưới
sự bảo trợ của Đức Mẹ La Vang, Ngài là
Mẹ yêu thương, năm 1798 hiện ra an ủi
những người giáo dân hồi đó bị Văn Thân
bách hại. Giáo Hội tại Việt Nam đă
được dâng hiến cho Trái Tim Vẹn Sạch
Đức Mẹ Maria. Giờ đây sắp sửa
đến ngày kỷ niệm 200 năm biến cố nói
trên. Ước ǵ thời gian chuẩn bị lễ
đệ nhị bách chu niên này cũng là thời gian tăng cường Đức Tin sốt
sắng và hăng say sống đời Công Giáo, là thời
gian liên kết với Giáo Hội bên nhà, thời gian lưu
niệm quá khứ, nhưng cũng là thời gian chuẩn
bị một tương lai sáng sủa hơn cho các
thế hệ mới của người Việt Nam. Cầu chúc cho họ
lớn lên với niềm hiên ngang lành mạnh xứng
với nguồn gốc Quốc Gia, với nền văn
hóa sung măn, với sự lớn mạnh của tổ tiên
họ xưa kia, vẫn hùng tráng trước mọi
thử thách gian truân..."
Thật ra
người dân Quảng Trị, không kể thuộc tôn giáo
nào, cũng đáng hănh diện với vùng đất La Vang,
nơi mà nhiều người trên thế giới đă
biết đến.
Vậy
La Vang là nơi nào? Trở về thời xa xưa, La Vang là nơi
rừng núi hẻo lánh có nhiều cây "lá vằng", có
thú dữ, nằm về phía Tây cách đồn Dinh Cát,
về sau là tỉnh lỵ Quảng Trị, bốn cây
số và cách Phú Xuân, tức Kinh Đô Huế, 58 km về phía
Bắc. Theo địa bộ của làng Cổ Vưu
được lập đời nhà Lê và được
quản tu lại đời Gia Long có ghi tên
"phường Lá Vằng". Sở dĩ
gọi vậy là v́ nơi đáo có nhiều lá vằng,
một loại cây mà người phụ nữ lúc sinh
đẻ thường nấu nước, có vị
đắng, để uống như một vị
thuốc, rồi đọc trại ra là La Vang. Có
người cho rằng gọi là La Vang v́ ngày xưa nơi
rừng rú có cọp, beo, thú dữ nên mỗi lần các toán
người đi làm củi ngang qua phải la vang
để thú dữ lẫn tránh.
Dở lại
những trang sử đau thương của đất
nước từ năm 1765-1801, nhận thấy trăm
họ lầm than, dân t́nh khổ sở v́ nạn đói kém,
chiến tranh. Đối với người Công
Giáo lại c̣n bị bắt bớ, tù đày, giết chóc.
Theo truyền thuyết th́ Đức Mẹ đă hiện ra
tại La Vang trong thời gian đen tối đó, tuy không
rơ năm nào, nhưng theo truyền khẩu, nhiều
người cho rằng Đức Mẹ đă hiện ra
dưới thời vua Cảnh Thịnh triều Tây Sơn
vào năm 1798.
Ngày 17-08-1798 vua
Cảnh Thịnh, con của vua Quang Trung, ra sắc dụ
cấm đạo từ Phú Xuân đến Bắc Hà,
lệnh cho tiêu diệt đạo Giatô, là đạo
ngoại quốc, phải triệt hạ các đạo
đường, đạo quán và tróc nả các đạo
trưởng. Để trốn tránh sự bắt đạo
của quan quân Tây Sơn, giáo dân xứ Trí Bưu (Cổ
Vưu), xứ Thạch Hản... đă
trốn vào ẩn náu trong "phường Lá Vằng". Họ phá rừng làm rẫy, có người đă
làm trại để giữ hoa màu. Và theo
truyền thuyết, đêm đêm họ họp nhau
đọc kinh lần chuỗi. Và bỗng nhiên vào một
đêm, họ thấy một bà đẹp, tay
bồng chú bé xuất hiện ở một cây đa cổ
thụ, có hai vị cầm đèn chầu. Họ
nhận ra đó là Đức Mẹ bồng Chúa Hài Đồng, có
hai thiên thần chầu. Đức Mẹ đă ngỏ
lời an ủi họ, bảo họ hái
lá cây xung quanh mà uống sẽ được lành bệnh
và hứa rằng ai đến cầu khẩn tại
chốn này Ngài sẽ ban ơn. Đức Mẹ c̣n hiện ra
nói với họ nhiều lần...
Dĩ nhiên, như
trong bài diễn thuyết của Đức cố Giám Mục
Hồ Ngọc Cẩn nói về sự tích La Vang đă nêu
lên vấn đề như sau: "Sự tích về La Vang
chúng tôi có biết đặng ít nhiều th́ bởi
truyền khẩu chứ không bởi truyền thơ. Những điều truyền khẩu về
Đức Mẹ La Vang thật hư thế nào, mặc ai
tự nghĩ. Chúng tôi chỉ luận chung rằng: có
tích mới dịch ra tuồng. Nay việc La
Vang đă ra như một việc lớn lao thế này,
lẽ nào là một việc vô tông vô tích".
Năm
1802, Gia Long thống nhất sơn hà. Việc
đạo tạm yên. Sự tích Đức
Mẹ hiện ra tại La Vang được truyền
miệng khắp các xứ đạo vùng Dinh Cát.
Người ta c̣n kể rằng người lương
đi làm rú đến La Vang sau bị "động"
nên rút lui, nhường lại cho giáo dân. Và do đó
trước năm 1885, La Vang đă có một nhà thờ kính
Đức Mẹ. Nhà thờ này, cũng theo khẩu truyền:
ngày 9-8-1885 đă bị cha con tên Mẹo dựa thế
Văn Thân đốt cháy, nhưng ngay chiều hôm đó,
Văn Thân đến thiêu sống cả gia đ́nh ông ta.
Từ
đó, La Vang một danh từ bắt đầu quen
thuộc và tŕu mến của giáo dân giáo phận Huế,
rồi nhanh chóng vang danh khắp Việt Nam. Không ai là
Công Giáo trong toàn quốc mà không nghe nói đến Mẹ La
Vang.
Năm 1886 Đức
Cha Gaspar (Lộc) cho xây đền thờ ngói, 15 năm
mới hoàn thành, v́ địa điểm núi non nên vận
chuyển vật liệu khó khăn. Năm
1901, đại hội La Vang đầu tiên được
tổ chức vào ngày 08-08 để mừng khánh thành nhà
thờ. Dịp nầy, Đức Cha Gaspar đă chọn
bổn mạng cho thánh đường La Vang với
tước hiệu: "Đức Bà Phù Hộ Các Giáo
Hữu" và đă quy định về các cuộc
kiệu ở La Vang như sau: mỗi năm kiệu
Đức Mẹ một lần vào ngày mồng 3 tết nguyên
đán gọi là kiệu minh niên và cứ ba năm mở
đại hội ba ngày trong tuần lễ Đức Mẹ
Hồn Xác Lên Trời. Tục lệ này
vẫn được tôn trọng và thi hành cho đến
ngày nay.
Năm 1924, Đúc Cha
Allys (Lư) cho phép Linh Mục Morineau (Cố Trung), cha sở
họ Cổ Vưu (Trí Bưu) cất một ngôi thánh
đường rộng lớn. Ngôi nhà
thờ ấy c̣n cho đến năm 1972, rồi bị
chiến tranh tàn phá.
Năm 1949-1954, La
Vang nằm trong vùng kiểm soát của phe Việt Minh, giáo
hữu La Vang tản cư ra thị xă Quảng Trị th́
đồng bào ở vùng lân cận như Long Hưng, Phú
Hưng lại đến quây quần chung quanh đền
Đức Mẹ. Một điều lạ lùng là trong ṿng hai
năm (1949-1950) có gần 1,000 người lương
trở lại Công Giáo, dưới thời cha Giacôbê
Nguyễn Linh Kinh làm cha sở ở linh địa La Vang
(1946-1955).
Năm 1954 hiệp
dịnh Gienève chia đôi đất nước, La Vang
nằm về phía Nam vĩ
tuyến 17. Cảnh hành hương bắt đầu
nhộn nhịp... Nhiều người,
nhiều đoàn thể từ Bến Hải đến Ca
Mau thay phiên nhau đến kính viếng Đức Mẹ.
Ngày 22-08-1961,
Hội Đồng Giám Mục miền Nam đă long trọng
tuyên bố tại La Vang là chọn đền thờ
Đức Mẹ La Vang làm "đền thờ toàn quốc
dâng kính Trái Tim Vô Nhiễm Đức Mẹ" và nhận linh
địa La Vang làm "Trung tâm Thánh Mẫu toàn
quốc". Công tŕnh xây dựng trung tâm bắt đầu
trong năm 1962 đến năm 1964 với sự tích
cực đóng góp của giáo dân khắp nơi. Cùng trong ngày
22-08-1961, ngày bế mạc đại hội, sắc Ṭa
Thánh Vatican nâng đền thờ Đức Mẹ La Vang lên
bậc Vương Cung Thánh Đường đă được
rước từ nhà thờ Trí Bưu vào theo nghi lễ
đặc biệt Á Đông.
Năm
1972, chiến tranh quốc cộng giữa Nam Bắc
khốc liệt xảy ra ở Quảng Trị, La Vang
bị tàn phá nặng nề. Bao công tŕnh kiến tạo đều
bị bom đạn san bằng, ngôi thánh đường
c̣n một nữa phía sau, chỉ trừ ba cây đa nhân
tạo nơi đài Mẹ, tục truyền là nơi
Mẹ đă hiện ra là c̣n nguyên vẹn.
Mùa xuân 1974, Đức
Mẹ thánh du Đạo Binh Xanh quốc tế tổ chức
đă đến La Vang trong cảnh hoang tàn, nhưng rất
đông con cái mẹ đến kinh viếng.
Từ sau năm
1975, mặc dù hoàn cảnh có khó khăn, chính quyền
Cộng Sản cấm ngặt những sự tụ
tập ở linh địa La Vang, tuy thế con cái Mẹ
không riêng ǵ ở giáo phận Huế mà nhiều nơi trong
nước Việt Nam, vẫn t́m cách về bên Mẹ.
Măi đến
năm 1990, chính quyền thấy rằng việc nghiêm
cấm giáo dân hành hương "về bên Mẹ" là
bất lợi, nên chính quyền huyện Triệu Hải (tỉnh
Quảng trị) cho phép tổ chức đại hội trong
sự hạn chế tối đa. Văn
bản cho phép của huyện chỉ có trước
một tuần lễ, và chỉ cho phép linh mục E.
Nguyễn Vinh Gioang, cha sở Diên Sanh kiêm linh địa La
Vang đứng ra điều hành thôi. Bởi
đó, về mặt tổ chức chẳng có ǵ. Điện đèn lờ mờ chẳng ra sao, máy móc
âm thanh phát tiếng cũng èo uột... nhưng về
mặt tinh thần đạo đức của trên 20,000
giáo dân lên đến tột độ.
Năm
1993, đại hội lần thứ 23 diễn ra từ
thứ năm 12 tháng 8 đến 15-08-1993. Đại hội lần này
tuy c̣n bị hạn chế nhưng cũng được
rộng mở hơn, lư do chính quyền CS nhận thấy
có lợi về mặt chính sách và vật chất, chỉ
riêng việc độc quyền giữ xe
cũng đă thâu được mấy triệu
đồng, chưa kể việc cho thuê đất
để các quán xá dựng lên...
Ngày bế mạc
có gần 50 ngàn con Mẹ từ Hà Nội, Bắc Ninh, Hà
Tĩnh, Sài G̣n, Đà Lạt, Gia Lai, Kontum, Đà Nẵng cùng với
giáo dân Huế cung nghinh Mẹ qua các con đường quanh
linh địa, có cả trên 100 đơn vị.
Hôm
nay, ở quê người, nhớ về Quảng trị,
nơi chôn nhau cắt rốn, một tỉnh miền Trung
tuy nghèo nàn nhưng đậm đà biết bao t́nh quê hương. Tôi cầu
xin cho quê hương tôi thoát khỏi bao đau thương,
một ngày nào được trở về sống
những ngày c̣n lại của cuộc đời
để rồi được chết chôn trong ḷng
đất Mẹ.