ĐH 2007.03 | Họp Mặt Vùng

 

Trang chính Bao DH 2007 2007-03
.

Ch.2 - I-Nhă va Đức Giêsu
Trích Sách Mắt Thấy Tai Nghe

S J V N

     
 

I-NHÃ VÀ ĐỨC GIÊSU

(SJVN và thân hữu chuyển ngữ từ “Ignatius and Jesus”, trích sách Eyes to Seem Ears to Hear của David Longsdale)

Điều I-nhă quan tâm về thần học không phải đơn thuần là các kiến thức thần học.  Như chúng ta đã thấy, ngài đã đi học để có thể “giúp đỡ các linh hồn”.  Phải thừa nhận rằng ngài chưa bao giờ tỏ ra có khiếu đối với những hệ thống tư tưởng trừu tượng, là hệ thống tiêu biểu của khoa thần học Kinh Viện vào thời ấy cả.  Ngài cảm thấy quen thuộc hơn với các hình ảnh, câu chuyện và tranh ảnh hơn là các khái niệm trừu tượng.  Đây là đặc nét của I-nhă.  Thí dụ như trong các bài suy niệm về tội ở Tuần Một Linh Thao, ngài không đưa ra một khảo luận thần học về tội, song là câu chuyện về tội trong kinh nghiệm của con người như Kinh thánh thuật lại (LT 45-54).  Khi đề nghị trong Tuần Hai rằng những người làm Linh Thao nên chiêm ngắm mầu nhiệm nhập thể, ngài trình bày mầu nhiệm ấy dưới dạng một câu chuyện được dựng thành từ một chuỗi những hình ảnh hoặc hoạt cảnh (LT 101-9).  Đối với I-nhă, sự thu hút tự nhiên của các hình ảnh và câu chuyện, dĩ nhiên không phải là chúng kém giá trị thần học hơn các khái niệm trừu tượng, cũng là một lý do vì sao ngài gần gũi với kinh thánh.

Tuy nhiên khi nói rằng I-nhã không phải là một thần học gia “suy lý” (speculative theologian), điều đó không có nghĩa là ngài không quan tâm đến đối tượng của thần học, đến sự hiểu biết về Thiên Chúa.  Ngược lại, chính kiến thức về Thiên Chúa đã làm nên sự thay đổi tận căn nơi cuộc đời ngài.  Cho bản thân lẫn cho những người khác, ngài tìm kiếm loại tri thức về Thiên Chúa làm nảy sinh lòng yêu mến và đem lại một lối sống theo sát Đức Giêsu hơn.  Vì thế, sự hiểu biết về Thiên Chúa trả lời cho những khát vọng sâu xa nhất của con người, chuyển động các tình cảm của họ, ảnh hưởng đến các chọn lựa và cam kết của họ.  Vì muốn giúp người khác cảm nghiệm được Thiên Chúa nơi chính họ, ngài đã đưa một vài kinh nghiệm của bản thân ngài vào sách Linh Thao như một sự trợ giúp cho những người khác tùy ý sử dụng.

Vì vậy, khi xem xét những hình ảnh của I-nhã về Đức Giêsu và Thiên Chúa, chúng ta không hẳn tìm một tia sáng hay tính mới mẻ trong cách I-nhă giải thích hay khai triển các ý tưởng thần học.  (Phần lớn sách Linh Thao đọc rất chán; có lẽ chán nhất là những phần trong đó I-nhã cố gắng viết cho có vẻ thần học bài bản hơn, như các phân đoạn 32-42, về các loại tội khác nhau).  Thay vào đó, chúng ta tìm kiếm các hình ảnh căn bản về Thiên Chúa và Đức Giêsu có ý nghĩa nhất đối với ngài.  Cũng như tất cả chúng ta, I-nhă đã lấy những hình ảnh phần nào tóm lược từ kinh thánh, các sách vở ngài đã đọc, những người ngài đã gặp, thế giới ngài đã sống và kinh nghiệm nội tâm của ngài.  Tầm quan trọng của chúng không phải là những tư tưởng độc đáo về thần học cho bằng sức mạnh hiển nhiên của chúng để đưa đến sự khác biệt cho cuộc đời thật của I-nhã.  Chúng ta đang xem xét các hình ảnh có ảnh hưởng đáng kể trên các chọn lựa, cam kết của I-nhă, và qua đó ảnh hưởng đến cả cuộc đời ngài.

 
 

 
 

TẦM QUAN TRỌNG CỦA CÁC HÌNH ẢNH VỀ ĐỨC GIÊSU VÀ THIÊN CHÚA

Các hình ảnh chúng ta có về Thiên Chúa là các lối nh́n quen thuộc, thông thường mà ta suy nghĩ về Thiên Chúa, tưởng tượng ra và quy chiếu về Thiên Chúa bằng ngôn từ, dáng điệu, âm nhạc, tranh ảnh hoặc những lối diễn tả khác.  Đây là các hình thức chúng ta trình bày Thiên Chúa cho bản thân mình, hoặc cho người khác.  Cũng như các hình ảnh chúng ta có về chính mình và về thế giới chung quanh, các hình ảnh về Thiên Chúa có tầm ảnh hưởng mạnh mẽ trên lối hành xử của chúng ta.  Hình ảnh chúng ta có về chính mình, về Đức Giêsu và Thiên Chúa giúp chúng ta định hình cuộc sống làm Kitô hữu.  Nếu tôi xem Thiên Chúa chủ yếu như là một ông chủ ra lệnh, thì tôi có khuynh hướng nhìn đời sống Kitô hữu của mình như một chuỗi các bổn phận và nhiệm vụ phải thực hiện để thỏa mãn Thiên Chúa, Đấng mà theo tôi hình dung, đã đặt ra các bổn phận ấy và đòi hỏi các điều ấy phải được thực hiện theo một cách thức nào đó, dựa trên các tiêu chuẩn rất cao.  Nhiều người đã cố gắng sống đời Kitô hữu dưới sự thống trị của các hình ảnh này, và chẳng lạ ǵ khi họ thường cảm thấy bị đè nặng dưới áp lực của các h́nh ảnh đó.  Đằng khác, đối với những người xem Thiên Chúa là người cha trong câu chuyện người con hoang đàng của Đức Giêsu, họ sẽ cảm nghiệm và sống đời Kitô hữu rất khác: với thái độ biết ơn và yêu mến hơn, ít sợ sệt hơn.

Hình ảnh chúng ta có về bản thân, về Thiên Chúa – và về mối tương quan của bản thân với Thiên Chúa – cũng ảnh hưởng đến các hình ảnh quan trọng khác trong đời sống Kitô hữu chúng ta: về đức tin, tội lỗi và tha thứ, giáo hội và các bí tích, sự chết và sự sống vĩnh cửu.  Nếu tôi có khuynh hướng cư xử thân mật với Thiên Chúa, xem Thiên Chúa như người cha trong dụ ngôn người con hoang đàng, thì các hình ảnh của tôi về tội lỗi và hòa giải hiển nhiên sẽ rất khác với các hình ảnh của một người khác luôn nhìn Thiên Chúa như vị quan tòa nghiêm khắc, Đấng áp dụng “luật” một cách cứng ngắc.

Mọi hình ảnh của chúng ta về Thiên Chúa đều không tương xứng, vì Thiên Chúa luôn vượt quá những gì ta có thể tưởng tượng.  Mặt khác, chúng vẫn có giá trị, vì chúng cần thiết để chúng ta biết và nuôi dưỡng một tương quan sống động với Thiên Chúa. Nhưng hình ảnh chúng ta có về Thiên Chúa cũng như về chính mình có thể bị méo mó, và sự trưởng thành của Kitô hữu thường có nghĩa là bỏ đi hoặc sửa lại các hình ảnh méo mó ấy và đón nhận những hình ảnh tương xứng hơn.  Nhưng dù méo mó hay không, các hình ảnh ấy, cũng như các h́nh ảnh căn bản chúng ta có về chính ḿnh và thế giới chung quanh, vẫn có ảnh hưởng mạnh mẽ và liên tục trên hành vi của chúng ta.

Thông thường chúng ta không ư thức tác động này.  Chúng ta có thể hoàn toàn không ý thức gì cả về nội dung của các hình ảnh nội tâm có ảnh hưởng đến mình, lẫn sự kiện chúng ta bị tác động như thế.  Thường chỉ khi nào hồi tưởng lại những gì ta tin, cách ta sống và những thái độ được biểu lộ qua lời nói và hành động, chúng ta mới ý thức được những hình ảnh nào đang điều khiển ḿnh.  Thí dụ, nếu tôi có một quan điểm rất dễ dãi, hời hợt về luân lý.  Nếu chịu khó suy nghĩ, thì tôi sẽ thấy hóa ra quan điểm này bị ảnh hưởng phần lớn bởi cái nhìn quen thuộc của tôi về Thiên Chúa như một ông bố dễ dãi, luôn mỉm cười và dễ dàng chấp thuận bất cứ điều gì đứa con hư hỏng của ông có thể làm hoặc không làm.  Nhưng có thể là chỉ khi nào tôi đặc biệt suy tư về những sự liên kết giữa hành vi của tôi và các hình thức mà tôi trình bày hoặc nói về Thiên Chúa th́ tôi mới ý thức được ảnh hưởng mạnh mẽ của những hình ảnh này.

Ngay cả nếu như chúng ta không ý thức về nội dung của những hình ảnh ta có về Thiên Chúa, hoặc về ảnh hưởng của chúng trong đời sống và trên hành vi của ta, thì chúng vẫn hiện diện và sống động, ảnh hưởng của chúng vẫn được những người khác cảm nhận.  Chẳng hạn như, một điều được thừa nhận rộng rãi ngày nay là sự thiếu hụt các hình ảnh nữ tính của Thiên Chúa trong văn hóa Kitô giáo đã tác động trực tiếp trên ưu thế của tính gia trưởng trong xã hội phương tây, và ngược lại.  Các hình ảnh về Thiên Chúa không chỉ ảnh hưởng đến hành vi của cá nhân mà thôi, song cả các cơ cấu xă hội và thể chế, và những điều này lại tác động trở lại đến các hình ảnh về Thiên Chúa được ưa chuộng của mỗi cá nhân và của mỗi nhóm.[i]

Lý do tôi muốn xem xét cẩn thận các hình ảnh của I-nhã về Đức Giêsu và Thiên Chúa là vì chúng đã ảnh hưởng rất nhiều đến cách ngài làm một môn đệ của Đức Kitô.  Nhưng điều ta quan tâm ở đây không chỉ mang tính cách lịch sử, trong nghĩa ta muốn biết thật đầy đủ xem I-nhã đã hình dung Thiên Chúa và Đức Giêsu như thế nào trong bối cảnh thời đại của ngài.  Đương nhiên chúng ta nhìn vào I-nhã như một con người của quá khứ, nhưng cũng là một người mà cách thức tiếp cận đời sống môn đệ Đức Kitô có một giá trị để trao ban cho chúng ta trong hiện tại.

 

 

 
 

CÁC HÌNH ẢNH VỀ ĐỨC GIÊSU

Theo một nghĩa rất thực và rất cụ thể, Đức Giêsu là con đường để I-nhã đến cùng Thiên Chúa.  Chính qua việc đọc về Đức Giêsu trong cuốn Cuộc đời Chúa Kitô của Ludolph ở Saxony khi còn đang dưỡng thương tại Loyola, I-nhã đã khám phá Thiên Chúa và thay đổi triệt để hướng sống của ngài.  Thần học nói về Đức Giêsu là Đấng trung gian giữa Thiên Chúa và nhân loại.  I-nhã đã khám phá tương quan này trong kinh nghiệm của ngài trước cả khi ngài gặp gỡ nó trong các lớp thần học.  Ludolph ở Saxony đã giới thiệu ngài cho Đức Giêsu, và Đức Giêsu giới thiệu I-nhă cho Thiên Chúa.  Dĩ nhiên, ngài đã “biết” Thiên Chúa theo một nghĩa nào đó ngay cả trước biến cố Pamplona, vì ngài đã lớn lên như một người Công giáo và vẫn còn nhớ được việc thực hành đạo của người Công giáo là xưng tội trước khi ra trận (Tự thuật, 1).  Nhưng Thiên Chúa mà I-nhã đã gặp qua Đức Giêsu trong thời gian dưỡng thương lại hoàn toàn mới mẻ.  Trong chương này và chương sau, chúng ta sẽ làm sáng tỏ một vài hình ảnh riêng của I-nhã về Đức Giêsu và Thiên Chúa.

Sự thu hút đặc biệt của I-nhã về phía con người Giêsu dường như đã bắt đầu trong thời kỳ dưỡng thương của ngài.  Vào thời gian ấy, ngài đã thể hiện điều đó bằng những cách thức rất ngây thơ và dễ cảm nhận.  Trong cuộc lữ hành ngài đã mang theo một cuốn sổ tay, trong đó ngài chép lại các đoạn trích từ các Tin Mừng, và những lời của Đức Giêsu được tô đậm bằng mực đỏ (Tự thuật, 11).  Ngài hy vọng đi đến Jerusalem để được nhìn thấy và đụng chạm các nơi Đức Giêsu đã sống, và trong sách Tự thuật, ngài đã viết về những cảm nghiệm khi ngài đến thăm các nơi thánh ấy (Tự thuật, 45).  Tại Jerusalem, ngài đã hai lần lừa được các lính canh để cho ngài thăm núi Ôliu.  Lần thứ hai ngài trở lại đó là vì ngài quên lưu ý hướng của dấu chân Đức Giêsu còn in lên hòn đá trước khi lên trời (Tự thuật, 47).  Vào thời gian ấy, lòng đạo đức của ngài dựa trên những chi tiết như vậy, và dựa trên các tiếp xúc dễ cảm nhận với những nơi có liên hệ với Đức Giêsu.  Đức Giêsu luôn là đối tượng cho ngài chiêm ngắm.

Mặc dù sự quyến luyến của ngài với Đức Giêsu càng ngày càng sâu sắc hơn, nó vẫn luôn là một nguồn cảm hứng mạnh mẽ và khắc họa hoạt động của ngài cho đến cuối đời.  Ngài đã cương quyết rằng dòng tu ngài sáng lập sẽ không mang tên gì khác hơn là tên Chúa Giêsu.

Đằng sau lòng đạo đức của I-nhă đối với Đức Giêsu trong lịch sử, dĩ nhiên còn có cả một truyền thống đức tin Kitô giáo rằng Đức Giêsu là Con Thiên Chúa, là Ngôi Lời mặc lấy xác phàm.  Đối với I-nhã, Đức Giêsu là Đấng đã đến từ phía Thiên Chúa để cứu chuộc loài người sa ngã, tội lỗi (x. LT 101-9).  Đức Giêsu vừa là thần linh vừa là con người.  Vì thế chúng ta thấy I-nhã nói rằng trong cuộc thương khó và cái chết của Đức Giêsu, thần tính đã “ẩn mình đi” (LT 196), và nhân tính yếu đuối của Người được nhìn thấy rõ ràng nhất.  Ngược lại, trong các câu chuyện phục sinh của Tin mừng, chúng ta có thể thấy “thần tính bây giờ hiện ra và bày tỏ một cách kỳ diệu... trong các hiệu ứng thực và thánh thiêng nhất của nó” (LT 223).  Niềm tin vào Đức Giêsu như Con Thiên Chúa, ngôi hai của Thiên Chúa Ba Ngôi nhập thể, cho phép I-nhã nói về Đức Giêsu với các tước hiệu như “Đấng Tạo hóa và Chúa chúng ta” và “Thiên Chúa Chí Thánh”.

Chúng ta đã thấy trong Chương 1, sự hiểu biết của I-nhã về việc ngài đi theo Đức Giêsu đã chịu ảnh hưởng lớn lao như thế nào từ các ý tưởng đang ngự trị trong các tiểu thuyết ngài đã đọc và bởi kinh nghiệm chiến sĩ của ngài, với các ý niệm lý tưởng về danh dự và vinh quang.  Ảnh hưởng này đặc biệt được phản ảnh trong sách Linh Thao.  Chúng ta không chắc rằng Đức Giêsu về mặt lịch sử đã nghĩ hoặc đã tự nói về mình trong tư cách vương đế như thế.  Các Tin Mừng trình bày về Đức Giêsu cho chúng ta như một nhà cải cách và thậm chí chối bỏ vinh quang và quyền lực chính trị liên quan đến tước hiệu “Đấng Kitô” trong tâm trí những người xung quanh Người (Mc 8, 27-38; Ga 6,15; 18, 36-40).  Tuy vậy, trong sách Linh Thao, I-nhã đưa ra trước mắt chúng ta một Đức Giêsu như một vị vua, cũng là một “hiệp sĩ đồng hành”, mời gọi những người khác cùng tham gia với Người trong công cuộc “chinh phục cả thế gian và mọi kẻ thù của ta, và nhờ vậy mà đi vào trong vinh quang của Cha ta” (LT 95).  Trong bài suy niệm về Tiếng Gọi của Vua và Hai Cờ hiệu, Đức Giêsu giải thích thêm về các mục đích của công cuộc này, các điều kiện để phục vụ và phương pháp nhờ đó Người sẽ chiến thắng:

Bởi đấy ai muốn đến với Ta thì phải lao động với Ta, để dù theo Ta trong cực nhọc thì cũng theo Ta trong vinh quang. (LT 95)

... Chúa của toàn thể thế giới tuyển chọn như thế nào biết bao nhiêu người, những tông đồ, những môn đệ, v.v., và sai họ đi khắp thế giới như thế nào [để họ] truyền bá giáo lý thánh của Người cho mọi bậc và hạng người. (LT 145)

Như thế, một trong những hình ảnh chính của Đức Giêsu trong Linh Thao là hình ảnh “Chúa muôn loài”, Đấng mời gọi những người khác cùng với mình chinh phục cả thế giới về cho Cha Người bằng cách giúp rao truyền giáo huấn của Người giữa muôn dân.  Người cho họ t́nh đồng đội, tham dự vào trong một cuộc diện xứng đáng và có phần cao quý, nó đòi hỏi sự gan dạ và quảng đại, cùng với niềm hy vọng sẽ được danh dự và vinh quang.  Ngôn ngữ của I-nhã mang tính cách quân sự xét theo bối cảnh thời đại của ngài, nhưng đó cũng là ngôn ngữ của một lời kêu gọi và đáp trả thân t́nh.  Nhà vua là một người có địa vị cao cả, nhưng cũng là một người bạn muốn đưa ra một lời mời gọi, mà I-nhã nghĩ rằng bất cứ người nào có đầu óc lành mạnh cũng không thể cưỡng lại được.  Bằng lý tưởng của ngài về danh dự và vinh quang, I-nhă thường có thể thấy được một sự đáp trả quảng đại và nhiệt tình hơn:

Những kẻ muốn nhiệt tình và nổi bật hơn trong mọi việc phụng sự Vua vĩnh cửu của mình và Chúa muôn vật, không những họ sẽ hiến con người mình cho lao động mà còn, bằng hành động ngược lại nhục dục của riêng mình và ngược lại lòng yêu xác thịt và thế gian, họ sẽ dâng những lễ vật có giá trị lớn hơn và có tầm quan trọng lớn hơn... (LT 97)

Một hình ảnh Đức Giêsu nổi bật nhiều hơn nữa trong sách Linh Thao là hình ảnh Đức Giêsu nhà truyền giáo, mà sứ mạng của Người cuối cùng đã đưa đến cái chết và sự phục sinh, một hình ảnh đã thu hút I-nhã mạnh mẽ.  Trong Tuần Hai, I-nhã chọn lựa các tình tiết trong các sách Tin Mừng để cung cấp chất liệu suy niệm cho những người đang làm Linh Thao.  Bài thao luyện “Tiếng Gọi của Đức Vua” mở đầu Tuần Hai của Linh Thao.  Điều thú vị là tầm quan trọng của sứ mạng ra đi rao giảng của Đức Giêsu xuất hiện ngay tại đây: “bằng con mắt tưởng tượng, xem các hội đường, các thị trấn và các thành trì là những nơi Đức Kitô Chúa chúng ta đã giảng dạy” (LT 91).  Việc này đặt đường hướng cho toàn bộ Tuần Hai, vì nó chi phối việc I-nhã chọn lựa các chi tiết từ Tin Mừng để đưa vào Tuần Hai và việc chọn lựa các mầu nhiệm bổ sung trong đời sống Đức Giêsu mà những người làm Linh Thao được đề nghị sử dụng (LT 261-88).  Vì thế mà trong Tuần Hai của Linh Thao, I-nhã bỏ qua hầu như toàn bộ các phép lạ của Đức Giêsu và chỉ tập trung vào sứ mạng rao giảng và dạy dỗ của Người.  “Trong toàn bộ sách Linh Thao, I-nhã không đưa ra một phép lạ nào làm đề tài chiêm niệm, và trong số năm mươi hai bài suy niệm bổ sung về cuộc đời Đức Giêsu, chỉ có năm phép lạ và không có phép lạ nào là trừ quỷ hoặc chữa bệnh cả.”[ii]

Việc lưu ý sự kiện Đức Giêsu là một người có sứ mạng ở giữa dân chúng, và sứ mạng này chủ yếu là việc dạy dỗ và rao giảng, là một dấu chỉ rõ ràng cho thấy cả hai điều này đều quan trọng đối với chính I-nhã.  Hoàn cảnh Giáo hội tại châu Âu vào thời I-nhã sống đóng góp một phần nào vào việc nhấn mạnh này.  Ngài bị đánh động bởi sự thiếu hiểu biết phổ biến nơi hàng giáo sĩ và dân chúng về giáo huấn của Đức Giêsu và giáo lý căn bản Kitô giáo, một tình trạng mà Công đồng chung Trentô đã nhận ra và cố gắng khắc phục.  Và sự nhấn mạnh về giáo dục cũng đã được phản ảnh trong lý tưởng của ngài về loại công việc tông đồ mà các tu sĩ Dòng Tên sẽ đảm nhận.  Ngài đặt ưu tiên hàng đầu cho việc rao giảng và dạy dỗ, nhất là dạy giáo lý cho trẻ em và những người ít học.  Điều đó đưa ngài đến việc dành nhiều thời gian và công sức hơn sau này cho việc thiết lập các học viện.  Ngài mô tả dòng tu này là:

Một Dòng được thành lập chủ yếu vì mục đích này: đặc biệt nỗ lực trong việc bảo vệ, truyền bá đức tin và vì sự tiến bộ của các linh hồn trong đời sống và giáo lý Kitô giáo, bằng việc rao giảng công khai, giảng dạy và bất cứ thừa tác vụ nào khác của Lời Chúa và [xa] hơn nữa bằng Linh Thao, dạy dỗ trẻ em và những người thất học trong Kitô giáo, và việc an ủi thiêng liêng cho các tín hữu của Đức Kitô qua việc nghe giải tội và ban các bí tích khác.[iii] 

Một nét đặc trưng khác về hình ảnh Đức Giêsu nơi I-nhã là việc ngài nhấn mạnh vào sự khó nghèo của Đức Giêsu.  Một lần nữa, ở đây, có lẽ hoàn cảnh mà I-nhã đã sống có ảnh hưởng ít nhất là một phần đến việc nhấn mạnh này.  Ngài cho rằng một trong những gốc rễ của sự lạm dụng và băng hoại trong Giáo hội thời ấy là sự theo đuổi giàu sang, đặc biệt giữa hàng giáo sĩ.  Chọn lựa của riêng ngài và kinh nghiệm về sự nghèo khó như một người lữ hành và một sinh viên nghèo rõ ràng cũng ảnh hưởng sâu sắc đến thái độ của ngài.  Thêm vào đó, trong suốt thời gian học tập, ngài và các bạn của mình đã có dịp tiếp xúc với các tu sĩ dòng Phanxicô và thán phục lý tưởng của họ.  Kinh nghiệm tại La Storta trên đường đi Roma hẳn đã tác động đến chọn lựa sau cùng về sự khó nghèo cho ngài và cho toàn Dòng.  Khi ngài cảm thấy Chúa Cha “đặt” ngài cùng với Chúa Con, hình ảnh Chúa Con ngài “thấy” không phải là Chúa phục sinh trong vinh quang, nhưng là Đức Giêsu đang vác thập giá: Đức Giêsu người tôi tớ khó nghèo.

I-nhã đă mạnh mẽ đưa ra cho chúng ta bắt chước sự khó nghèo của Đức Giêsu trong nhiều chiều kích khác nhau.  Một trong những đặc nét của toàn bộ mầu nhiệm nhập thể và cuộc đời, cái chết và sự phục sinh của Đức Giêsu xem ra có ảnh hưởng sâu sắc đến I-nhã mang tính cách vô điều kiện.  Không bởi một đòi hỏi nào, nhưng chỉ do yêu thương loài người, Con Thiên Chúa đã đến trong thế gian để thế gian được cứu độ.  Như I-nhã đã thấy được, (rất giống tinh thần của Pl 2, 1-11), điều này liên quan đến Ngôi Lời Thiên Chúa trong việc “tự trống rỗng hóa” (self-emptying), nghĩa là Ngôi Lời mang lấy thân phận con người, và qua đó chấp nhận một cuộc sống bao hàm sỉ nhục, vất vả, lao nhọc, đau khổ và một cái chết đau thương nhục nhã; tất cả những điều này xuất phát từ tình yêu đối với một nhân loại vô ơn và bất tín.  I-nhã đã áp dụng điều này cho chính ngài và cho những người khác trong một cách thức rất gần gũi mật thiết, là bằng cách nhìn điều Đức Kitô đã làm cho tôi vì tình yêu:

Tưởng tượng Đức Kitô Chúa chúng ta đang ở trước mặt và treo trên Thánh giá, [tôi] tâm sự: làm sao từ chỗ là Đấng Tạo hóa Người đã đến làm người, và từ cuộc sống vĩnh cửu đã đến [nhận] cái chết nơi trần gian, và như thế để chết vì các tội của tôi. (LT 53)

Sau này, người làm Linh Thao được yêu cầu nhìn ngắm Đức Maria và thánh Giuse lúc Đức Kitô hạ sinh, “nhìn và quan sát những điều các ngài làm, như đi đường xa và chịu cực nhọc để Chúa sinh ra trong cảnh nghèo khó tột độ, và rồi sau khi chịu bao nhiêu cực nhọc, đói khát, nóng lạnh, sỉ nhục và lăng mạ, Chúa chịu chết trên thập giá; và tất cả những sự ấy là vì tôi” (LT 116).  Cách nhìn mầu nhiệm Đức Giêsu như thế, với nền tảng của nó là thần học tự hủy mình, không phải lạ thường trong các tác phẩm thần học và đạo đức thời I-nhã.[iv]  Nó tái xuất hiện dài hơn trong một số lá thư viết sau này của I-nhã.  Vào năm 1547, ngài đã viết cho một nhóm tu sĩ Dòng Tên, nhấn mạnh cái giá Đức Giêsu phải trả để cứu độ chúng ta như một lời mời gọi đáp trả một tình yêu:

Nhưng hơn bất cứ điều gì khác, tôi ước ao đánh thức dậy trong các bạn tình yêu tinh tuyền đối với Đức Giêsu Kitô, lòng khao khát làm vinh danh Người và ơn cứu độ cho các linh hồn mà Người đã cứu chuộc.  Vì các bạn là các chiến sĩ của Người trong dòng này, với một tên hiệu đặc biệt và một thù lao đặc biệt...  Thù lao của Người là mọi thứ trong bình diện tự nhiên cho các bạn...  Thù lao của Người cũng là các ơn thiêng liêng là ân sủng của Người, mà Người đã rất quảng đại và lân tuất cho các bạn nếm trước...  Thù lao của Người cũng là những phúc lành khôn sánh từ vinh quang của Người, vinh quang mà, trong khi không dành phần ưu tiên gì cho mình, Người... đã dành sẵn cho bạn...  Cuối cùng, thù lao của Người là toàn thể vũ trụ và mọi thứ vật chất và thiêng liêng trong đó...  Cứ như thù lao này còn chưa đủ, Người đã tự biến mình thành thù lao, trở nên một người anh em trong xác phàm của chúng ta, là giá để cứu độ chúng ta trên thập giá và trong phép Thánh Thể, để được ở với chúng ta, để nâng đỡ và đồng hành...  Quả thật, chúng ta biết rằng, để buộc chúng ta khao khát và làm việc cho vinh quang này, Đấng Chí Thánh đã tiên liệu cho chúng ta các ân huệ khôn lường vô giá dường ấy, bằng cách tự lột bỏ mọi điều Người có để cho chúng ta tham dự vào; tự mang lấy mọi điều bất hạnh để giải phóng chúng ta khỏi chúng; muốn bị bán đi để cứu chuộc chúng ta, bị khinh mạ để làm cho chúng ta vinh hiển, trở nên nghèo để cho chúng ta giàu có; chấp nhận một cái chết nhục nhằn và đau đớn để cho chúng ta một đời sống vĩnh cửu và hồng phúc...  Thật quả là vô ơn và cứng lòng biết bao, những ai trước những điều này vẫn không nhận ra bổn phận của mình là mau mắn phục vụ Đức Giêsu Kitô Chúa chúng ta và tìm kiếm vinh danh Người.[v]

Như vậy, đối với Đức Giêsu, khó nghèo không phải là vấn đề chọn lựa giả tạo (càng không phải sự túng quẫn do áp đặt) cho bằng là một hậu quả và dấu chỉ về căn tính của Người, và về lòng trung tín hết ḿnh của Người với sứ mạng.  Đức Giêsu đại diện cho Thiên Chúa và các giá trị của Người trong một thế giới phần lớn bị chi phối bởi việc tìm kiếm chính mình và việc thực thi quyền hành mang tính vị kỷ.  Hệ quả của việc đó là Đức Giêsu đã đồng hóa chính Người với toàn thể nhân loại trong cái khó nghèo và mong manh của họ, kể cả những người thấp hèn và bị ruồng bỏ nhất.  Người đã khước từ việc theo đuổi sự giàu sang và quyền lực vốn đi đôi với tham vọng và ích kỷ.  Thay vào đó, Người cho đi chính mình một cách tự nguyện và quảng đại trong tình yêu, để phục vụ và chữa lành mọi người.  Bởi vì Đức Giêsu hoàn toàn trung tín với sứ mạng của Người cho người khác, Người đã chấp nhận sống như một người nghèo.  Và bởi vì sự trung tín của Người với sứ mạng và với điều Người xem là các giá trị của Thiên Chúa, điều này đã khiến Người xung đột với những người quyền thế.  Người phải chịu sỉ nhục, lăng mạ và cuối cùng chịu chết dưới tay họ.  Đức Giêsu đã chấp nhận con đường này, vì nếu làm khác đi sẽ là một sự phản bội Thiên Chúa, phản bội những con người Người đã phục vụ và phản bội chính Người.  Các đặc tính của sứ mạng Đức Giêsu được tóm gọn lại trong cái mà I-nhã gọi là sự khó nghèo.

Cũng đáng lưu ý là đối với I-nhã, một điều khá nghịch lý là sự khó nghèo của Đức Giêsu cũng là cách để Người trở nên “Vua Vĩnh Cửu” và là “Chúa muôn loài”.   Nghịch lý này nằm ở ngay trung tâm mầu nhiệm Đức Giêsu và vang vọng lại các trình thuật trong Tin Mừng về việc làm Đấng Mê-sia theo cách Đức Giêsu đă chọn.  Trong khi bình thường, theo kinh nghiệm của I-nhã, vua chúa được bao quanh bởi của cải và các biểu tượng của nó, thực thi quyền hành đi cùng với nó và không chấp nhận sự sỉ nhục và lăng mạ, thì vương quyền của Đức Giêsu lại có một hình thức khác, “không thuộc thế gian này” (Ga 18,36); hình thức của người tôi tớ chọn lấy con đường khó nghèo.  Các người đi theo Đức Giêsu khi ấy được trình bày với một chọn lựa kiên quyết giữa hai hệ thống giá trị và thái độ.  I-nhã đề nghị rằng các ứng viên muốn gia nhập Dòng Tên phải được hướng dẫn rõ ràng về

mức độ lớn lao nó giúp và làm lợi ích cho một người trong đời sống thiêng liêng, việc gớm ghét toàn thể chứ không phải một phần bất cứ điều gì thế gian yêu chuộng và ôm ấp, chấp nhận và ước muốn với hết sức mình những gì Đức Kitô Chúa chúng ta đã yêu mến và ôm ấp.  Cũng như những người thuộc về thế gian... yêu thích và tìm kiếm hết sức mình danh dự, tiếng tăm và sự kính trọng danh tiếng trên trần gian... thì những người đang tiến bộ trong đời sống thiêng liêng và thực lòng bước theo Đức Kitô Chúa chúng ta cũng yêu mến và khao khát mãnh liệt mọi điều ngược lại.  Tức là họ ước muốn mặc lấy y phục của Chúa chúng ta vì lòng yêu mến và kính trọng Người đáng có được, đến mức ở đâu không gây ra sự xúc phạm đến Thiên Chúa Chí Tôn và không gây ra tội cho người xung quanh.  Họ sẽ ước ao chịu mọi xúc phạm, vu cáo và sỉ nhục, bị coi và đối xử như những người ngu ngốc (nhưng không tự tạo ra những dịp như thế) bởi vì họ ao ước nên giống và bắt chước một cách nào đó Đấng Tạo Hóa và Đức Giêsu Kitô Chúa chúng ta, bằng cách mặc lấy y phục của Người, chính vì lợi ích thiêng liêng của chúng ta mà Người đã tự mặc lấy y phục ấy.  Vì Người đã làm gương cho chúng ta, rằng trong mọi điều chúng ta có thể tìm kiếm... để bắt chước và theo Người, vì Người là đường dẫn đưa mọi người đến sự sống.[vi]

Nhiều bóng đen dường như đang vần vụ trên vai I-nhã khi ngài viết những dòng này: dòng họ Medicis, Borgia, Gonzagas và nhiều người khác tương tự đang sống trong quyền lực và vinh quang; các vua chúa, giáo hoàng, hồng y và cả nghề giáo sĩ chức nghiệp mà ngài đã không trở thành.

Trong các Tuần Hai và Ba của Linh Thao, hình ảnh Đức Giêsu mà I-nhã trình bày để người làm thao luyện suy niệm hằng ngày là hình ảnh một con người cũng là Con Thiên Chúa, một con người theo đuổi sứ mạng truyền giáo của mình trong nghèo khó cho đến khi nó dẫn Người đến cái chết trên thập giá.  Trong Tuần Bốn, v́ điểm hội tụ là Đức Giêsu phục sinh hình ảnh có khác đi một chút.  Là Chúa phục sinh, Đức Giêsu mặc nhiên hiện diện trong toàn bộ tiến trình Linh Thao.  Bằng sự hiện diện của Người trong Giáo hội và trong cuộc sống của những người làm Linh Thao, Đức Giêsu luôn ở với các môn đệ của Người cho đến tận thế như lời Người đã hứa.  Hình ảnh mà Tuần Bốn đưa ra, tuy vậy, không phải là hình ảnh người rao giảng Lời đi đây đó, mà là Đức Giêsu người bạn và người an ủi (LT 224).  Trong các câu chuyện phục sinh của Tin Mừng, các môn đệ đã gặp Người như một người bạn và một người an ủi; và chính như người bạn và người an ủi mà Đức Giêsu gặp gỡ các môn đệ Người “cho đến tận thế”.  Hình ảnh này cho thấy một chiều kích khác của sự hiện diện và hoạt động của Chúa phục sinh trong Giáo hội, và đây là hình ảnh về Đức Giêsu kết thúc kỳ Linh Thao.

Đức Giêsu là Con Thiên Chúa có một vị trí đặc biệt trong đời sống cầu nguyện của riêng I-nhã và trong các bài thao luyện mà ngài đề nghị cho những người làm Linh Thao.  Ngài thấy “Con” như Đấng trung gian giữa người cầu nguyện và Thiên Chúa là Cha.  Liên kết với kinh nghiệm của chính I-nhã cho ta bối cảnh để nhìn thấy Con trong vai trò này.  I-nhã thích hình dung Thiên Chúa như một vị vua, Thiên Chúa Chí Tôn, được bao quanh bởi “toàn thể triều thần thiên quốc” (LT 74, 98, 106).  Khi ấy, ngài cầu nguyện giống như một người đang van nài tại triều đình ấy, một người bình thường muốn liên lạc với Thiên Chúa Chí Tôn để ngợi khen, cảm tạ, bày tỏ sự ăn năn, cầu khẩn v.v...  Con Thiên Chúa là một trong những người – cùng với Mẹ Người và các thánh – mà chúng ta kêu cầu như một trung gian với Thiên Chúa, một người bào chữa sẽ tác động đến Thiên Chúa Chí Tôn vì chúng ta.

Hình ảnh này của người Con, Đấng mà đôi khi I-nhã gọi đến trong khung cảnh này là “Ngôi Lời nhập thể” rất quan trọng đối với ngài.  Từ Tuần Một Linh Thao trở đi, ngài đề nghị những thao viên phải kết thúc mỗi lần cầu nguyện bằng việc mà ngài gọi là “hồi quy” (colloquy).  I-nhã đề nghị khi chúng ta cần một ơn đặc biệt nào đó, trước hết hãy cầu xin cùng Đức Mẹ để xin được ơn ấy từ Con của Mẹ; rồi xin cùng Chúa Con để Người xin điều ấy cho ta từ Chúa Cha; sau đó chúng ta mới xin cùng chính Chúa Cha (LT 63, 147, 148, v.v.).  Hành trình Thiêng Liêng của I-nhã cho thấy rằng ngài đã tìm ra khung cảnh cầu nguyện này, và hình ảnh Chúa Con như là vị trung gian, rất hữu dụng trong các cuộc chiêm niệm của ngài cho đến cả sau này như vào năm 1554.[vii]

Chúng ta đã nhìn vào các hình ảnh của I-nhã có về Đức Giêsu như là “Vua Vĩnh Cửu”, Đấng cũng là một “hiệp sĩ đồng hành”, như một nhà truyền giáo và giảng dạy đi khắp nơi, như một người đã ôm ấp sự khó nghèo, như một người bạn và người an ủi, và như một vị trung gian tại triều đ́nh Thiên Chúa Chí Tôn.  Chúng ta cũng đã khai thác một số ý nghĩa của chúng, mặc dù không kỹ lưỡng, vì các hình ảnh ấy là các biểu tượng và chúng mang nhiều ý nghĩa.  Chúng bắt nguồn từ kinh thánh và các truyền thống thần học và linh đạo Kitô giáo, hoặc trực tiếp hoặc gián tiếp.  I-nhã đã kết hợp các hình ảnh lấy từ kinh thánh và truyền thống với các hình ảnh – không nhất thiết là hình ảnh đạo đức – từ kinh nghiệm của chính ngài, trong một tiến trình tháp nhập, thích nghi và phát triển. 

 

 

 
 

SUY TƯ VÀ HỌC HỎI:

1) Trong sách Linh Thao, Thánh I-nhă phác hoạ nhiều h́nh ảnh về Chúa Giêsu, bạn thấy h́nh ảnh nào có ư nghĩa nhất đối với bạn và với con người thời nay?

2) H́nh ảnh "Chúa Giêsu Vua vĩnh cửu" trong Linh Thao có c̣n thích hợp với thời đại chúng ta không? Nếu không, bạn có thể đề nghị một h́nh ảnh hay biểu tượng khác?

3) Bạn có đồng ư là h́nh ảnh "Chúa Giêsu khó nghèo và chịu sỉ nhục" là đặc tính trung tâm của Linh Thao không?  Nhưng xin sống khó nghèo và chịu sỉ nhục với Chúa Giêsu có phải là điều thích hợp với năo trạng đương thời không? Nếu không, chúng ta phải làm ǵ?

 

 

 
 

[i] Để đọc thêm các tranh luận về tầm quan trọng và sức mạnh của các hình ảnh ấy, xin xem Kathleen R. Fischer, The Inner Rainbow: The Imagination in Christian Life (New York: Paulist Press, 1983), đặc biệt các chương 1,4,5,6.  Về các khảo luận về các hình ảnh của chính I-nhã trong chương này và chương tiếp theo, xin xem Joseph Thomas SJ, Le Christ de Dieu pourIgnace de Loyola, (Paris: Desclee, 1981).

[ii]   John R. Donahue, “Miracle, mystery and parable”, The Way, quyển 18, số 4 (10.1978), tr. 252.

[iii]  Định thức Dòng Tên, số 3, trong Hiến luật, tr. 66.

[iv]  Bài viết của P.Henry, “Kénose” trong Dictionaire de la Bible: Supplement, có một khảo cứu lịch sử rất hay về chủ đề này.

[v]  Letters, tr. 124-5; xem tr. 107-8.

[vi] Bản Khảo Sát Chung, số 101 trong Hiến luật, tr. 107-8.

[vii] Chẳng hạn, vào ngày 25.02.1544, I-nhã viết: “Trong khi cầu nguyện cùng Chúa Cha, dường như Đức Giêsu đang trình bày chúng, hoặc tháp tùng các lời cầu nguyện của tôi lên trước Chúa Cha”, Inigo: discerment log-book. The Spiritual Diary of Saint Ignatius Loyola, Joseph A. Munitiz SJ biên soạn và dịch (London: Inigo Enterprises, 1987), phần 77.  Trích dẫn từ Spiritual Diary.