ĐH 2003.02 | Số Đặc Biệt - Tưởng Niệm Cha Dominici

 

Trang chính Bao DH 2003 2003-02
.

Nhớ Cha Đỗ Minh Trí 

Hoàng Văn Đạt, SJ

 
  Cha Gildo Dominici, linh mục Ḍng Tên người Ư, sinh năm 1935 tại Assisi, qua đời v́ ung thư ngày 3.3.2003 tại Rôma. Từng là thừa sai tại Việt Nam, cha mang tên Việt Nam là Đỗ Minh Trí.

Tôi gặp cha Gildo Dominici lần đầu năm 1968, tại Trung Tâm Đắc Lộ ở Saigon. Đó là một buổi chiều, cha đang đi dạo trong sân. Thấy một cha lạ, tôi chưa biết là ai, nhưng cha đă chào tôi trước, bằng tiếng Việt. Tôi hỏi: “Cha người nước nào?” Cha vừa cười vừa trả lời bằng thứ tiếng Việt của người Châu Âu mới học: “Tôi là người Việt Nam!” Tôi rất ngạc nhiên, muốn nói chuyện thêm, nhưng cha chỉ biết nói bấy nhiêu thôi!

Từ năm 1970, cha làm giáo sư ở Giáo Hoàng Học Viện Thánh Piô X Đàlạt, nơi tôi học. Từ năm 1972, cha làm quản lư cộng đoàn học viện Ḍng Tên, nơi tôi ở. Làm giáo sư th́ xa xa, không sao, nhưng làm quản lư th́ rất gần. Cha là người Ư, chắc không khó tính. Nhưng ai đó cho tôi biết cha là tiến sĩ luật. Một tiến sĩ luật đi làm quản lư! Tôi nghĩ ngay đến các tiến sĩ luật trong Tin Mừng, thời Chúa Giêsu, và ... không mấy có cảm t́nh. Tôi tự nhủ: “Phải dè dặt thôi!”

Tiếng Việt của cha lúc này đă khá, có thể giao tiếp với mọi người, có thể dâng lễ và giảng được. Mỗi ngày sau bữa ăn trưa và bữa ăn tối, chúng tôi thường đi bộ một chút ở sân và nói chuyện với nhau. Dần dần tôi khám phá ra một cha Đỗ Minh Trí khác hẳn với những điều tôi nghĩ lúc đầu. Ước nguyện nóng bỏng nhất của cha là được chia sẻ với những người b́nh thường nhất, nghèo khổ nhất. Việt Nam chẳng những nghèo mà lúc ấy đang có chiến tranh, chính v́ thế cha muốn đến Việt Nam. Cha hạnh phúc khi được ở giữa những người nghèo khổ để học với họ cuộc sống làm người, làm tín hữu, giữa muôn vàn sóng gió và thử thách. Cha luôn băn khoăn về nếp sống của các linh mục và tu sĩ h́nh như gần với những thành phần khá giả và trở nên ít nhiều quan liêu. Tôi nghĩ thầm là cha hơi lư tưởng, phần nào ảo tưởng và cả đến không tưởng.

Nhưng cha không phải là một người chỉ mơ với mộng. Rất thực tế: hằng ngày cha phục vụ cộng đoàn từ việc ăn uống đến mọi nhu cầu vật chất rất chu đáo. Chắc chắn cha không phải là một người có đầu óc tổ chức của một nhà quản trị. Vả lại tiếng Việt của cha chỉ là vừa đủ chứ không thể nói là “như gió” được. Nhưng cha thích nghi rất giỏi: bằng cách ... cười! Cha không thông thạo lắm về cách ăn uống của người Việt Nam. Ở học viện, hầu như chúng tôi không uống rượu bao giờ. Rồi ăn cơm kiểu hoàn toàn Việt Nam, chắc chắn khác hẳn ở Ư. Nhưng không bao giờ nghe cha than phiền hay đ̣i hỏi chi hết. Cha thường nói nửa đùa nửa thật về việc uống rượu: “Chúa ban rượu ngon cho phấn khởi ḷng người”, vậy mà người Việt Nam không uống rượu, đời sống làm sao vui được?

Chẳng những vậy, cha c̣n rất thích đi Bảo Lộc ở tỉnh Lâm Đồng: hễ có dịp là cha đến ở với giáo dân miền quê. Cụ thể hơn, cha cảm thấy hạnh phúc đặc biệt với những người miền quê, quây quần bên mâm cơm gia đ́nh trên manh chiếu trải ngay giữa nền nhà, vắt áo dài trên vai đi lễ, nói thứ tiếng Việt không có trong từ điển như “nạy cha” hay “cây rừa”, khiến cha nhiều phen lúng túng v́ không hiểu! Không biết ai đă chuyển tên cha từ tiếng Ư là Dominici sang tiếng Việt là Đỗ Minh Trí, h́nh như người nào đó ở Bảo Lộc, chỉ biết là cha rất hănh diện về tên của ḿnh, tự coi như ḿnh thực sự là người Việt Nam, v́ tên chính là người. Có lần tôi nói đùa: “Cha sửa lại giấy khai sinh đi, nơi sinh là Bảo Lộc chứ không phải Assisi!” Cha đáp: “Assisi là quê của thánh Phanxicô, Bảo Lộc là quê của tôi!” Rồi cha nói với tôi về ư định mạo hiểm với Chúa Giêsu, đặc biệt trong mầu nhiệm Nhập Thể.

Tôi chỉ theo học với cha một giảng khóa về “Các nhân đức.”  Tôi vốn có ít nhiều thành kiến về “luân lư”, nên coi thần học luân lư như điều cực chẳng đă phải học th́ học thôi, chứ không hứng thú chi. Chẳng những vậy, phải thú thật là cha giảng không hấp dẫn mấy. Tuy nhiên, những điều tôi học được trong giảng khóa ấy, nhất là trong giáo tŕnh cha soạn, đă mở cho tôi một nhăn quan mới với những chân trời mới, từ các ngôn sứ đến Chúa Giêsu trong Tin Mừng, từ các giáo phụ đến Công đồng Vaticanô II, cả nền luân lư Nho Giáo và quan niệm về đức hạnh của người Việt Nam nữa. Luân lư không chỉ là những chuyện của các cụ già lẩm cẩm mà là cuộc sống cao đẹp, vừa rất nhân bản vừa rất thánh thiện của con cái Thiên Chúa. Trước kia tôi nghĩ các nhân đức chỉ là những ràng buộc con người trong những cái rọ chật chội và g̣ bó. Làm người, sống như con cái Thiên Chúa, nên thánh… tất cả đều mời gọi tôi vươn tới. Tôi thấy Chúa Giêsu sống như con Thiên Chúa và anh em của con người. Tôi thấy chính ḿnh phải thoát ra khỏi những cái khuôn không óc không tim. Bên ngoài cha sống rất b́nh dị, lại ăn nói không hấp dẫn lắm, nên thật tôi không ngờ trái tim cha có một chiều sâu nhân bản và thiêng liêng đáng cảm phục như vậy.

Tiếng Việt nhiều khi trở thành một trung gian để cha tạo niềm vui. Một hôm đi đường, chúng tôi gặp hai người đang căi nhau gay gắt: họ nói thứ tiếng Việt phi văn phạm và phi từ điển. Dĩ nhiên cha không hiểu được, nên hỏi tôi: “Họ nói ǵ?” Tôi đề nghị: “Cha đến bảo họ nói chậm thôi, nói nhanh quá không hiểu được!” Cha nói ngay: “Làm ơn nói chậm chậm... "May mà họ nhận ra cha là một người nước ngoài, không th́ hôm ấy tôi lănh đủ! Một hôm khác, ở bờ biển Nha Trang, cha đến làm quen mấy em bé. Các em ngạc nhiên: “Ông Mỹ!” Cha tỉnh bơ: “Tôi là người Việt Nam!” Một phụ nữ bán hàng rong đứng gần đó phản đối: “Mặt mũi thế kia mà xưng là người Việt Nam!” Cha trả lời: “Tôi là người Việt Nam, gốc Hà Nội.” Đến đây th́ bầu khí trở nên vui vẻ. Một số người bán hàng rong khác quên cả việc buôn bán đến nói chuyện với cha. Người ta đố cha cái này gọi là ǵ, cái kia gọi là ǵ… cha trả lời được hết. Cuối cùng, một phụ nữ đưa cái đ̣n gánh lên hỏi: “Cái này kêu bằng ǵ?” Cha trả lời bằng một câu có lẽ ít ai ngờ được: “Cái đó ở Hà Nội không có, tôi không biết!” Mọi người được một trận cười vỡ bụng.

Sau năm 1975, suốt gần 15 năm, ở Saigon, tôi không có một tin tức nào về cha, nhưng h́nh ảnh của cha luôn sống động và giúp tôi sống ơn gọi linh mục với anh em Ḍng Tên, với giáo dân và với mọi người. Trong số các cha các thầy Ḍng Tên nước ngoài đă ở Việt Nam trước năm 1975, cha là người đầu tiên trở lại thăm Việt Nam. Đó là năm 1989. Tôi dẫn cha đi thăm đây đó. Ngôi nhà thờ như một cái kho, những tập thánh vịnh chép tay, một cộng đoàn giáo dân nhỏ bé và đơn sơ, những người bệnh phong nghèo khổ, những anh em Ḍng Tên ḥa ḿnh với mọi người giữa các nông trường: mọi sự đối với cha đều là những điều kỳ diệu. Cha kể cho tôi nghe hai kinh nghiệm ở trại tỵ nạn. Hằng ngày, cha đến gặp Chúa Giêsu Thánh Thể, và thấy được khích lệ ở giữa các thuyền nhân như chính Ngôi Lời đă làm người và ở với con người. Một hôm, cha bị cảnh sát Indonesia chất vấn: “Tại sao mỗi khi có bất đồng giữa chính quyền và người tỵ nạn, ông luôn luôn đứng về phía họ?” Cha trả lời: “V́ quư vị có quyền, có tiền, có súng, c̣n họ chẳng có chi hết.” Sau đó ít lâu, cha nhận được một lá thư, nhưng khi mở ra, cha thấy vỏn vẹn một viên đạn cùng với mấy chữ: “Xin mời ông đi nơi khác.” Thế là bề trên bảo cha đi. Tôi có cảm tưởng cha luôn luôn tha thiết với mầu nhiệm Nhập Thể, nhưng Chúa lại muốn dẫn cha đi xa hơn nữa.

Tôi hỏi cha về hai cuốn “Việt Nam Quê Hương Tôi” và “Đi T́m Anh Em”, cha nói: “Đó là vài ba suy nghĩ vụn vặt thôi.” Khi đọc “vài ba suy nghĩ vụn vặt” ấy, tôi hiểu hơn về hai điều trong ḷng cha: Có một Việt Nam rất đặc biệt và có một Chúa Giêsu đầy nhân tính.

Việt Nam quê hương của cha không phải là thịt chó hay thuốc lào, không phải là dăy Trường Sơn hùng vĩ hay đồng bằng Cửu Long trù phú, không phải là vịnh Hạ Long di sản thiên nhiên thế giới hay những băi biển cát trắng có thể tắm quanh năm, cũng không phải là thành phố Saigon nhộn nhịp, thành phố Đà Lạt thơ mộng, thành phố Huế trầm tư, nhưng chính là những tấm ḷng cởi mở, đầy ắp t́nh người, những nụ cười hiền hậu và những mời chào thân ái, là những cuộc đời trải qua nghèo khổ nghiệt ngă và chiến tranh tàn khốc, nhưng vẫn vui tươi và lạc quan, vẫn tha thứ và hy sinh. Chúa Giêsu của cha không phải đơn thuần là một vị thần để người ta tôn thờ, hay một nhà luân lư nghiêm khắc với những mệnh lệnh khô khốc, những lời khuyên nhàm tai hay những dọa nạt ấu trĩ, nhưng là một người anh em giữa những anh em, nhất là những anh em nghèo khó và đau khổ, để lắng nghe, để chia sẻ, để đồng hành. “Đi t́m anh em” của cha không phải là bắt chước một triết gia Hy Lạp thắp đuốc đi t́m một người trên đường phố đông đúc giữa ban ngày, nhưng là “đến với anh em”, “trở nên anh em” của người khác, giữa cuộc sống đan kết bằng nụ cười và nước mắt, như Chúa Giêsu đă “không hổ thẹn gọi con người là anh em”. Đó là lư do giải thích tại sao cha vào Ḍng Tên, tại sao cha đến Việt Nam, tại sao cha giúp các trại tỵ nạn. Trái tim cha là một giao điểm giữa Chúa Giêsu và tâm hồn Việt Nam.

Việt Nam đối với cha rất dễ thương, nhưng không phải luôn luôn dễ dàng. Một hôm tôi đưa cho cha xem cuốn “Tiếng Ư dễ như chơi” (LItalien sans peine), cha nói: “Tiếng Ư th́ học dễ như chơi được, c̣n tiếng Việt Nam th́ phải đổ mồ hôi nước mắt mới học được.” Tôi nói: “Mai mốt con sẽ soạn cuốn tiếng Việt dễ như chơi cho cha coi.” Cha lắc đầu quầy quậy: “Mâu thuẫn nội tại! Không thể có một h́nh tṛn vuông, cũng không thể có tiếng Việt dễ được.” Rồi cha thêm: “Chắc chắn khi chết tôi sẽ lên thiên đàng ngay, không phải qua luyện ngục, v́ tôi đă học tiếng Việt nên đền tội đủ rồi.” Một hôm cha phải lái xe từ Ngă Tư Bảy Hiền đến Chợ Bến Thành ở Saigon. Vượt qua quăng đường 5 km ấy thật là cực khổ, cha b́nh luận: “Ai lái xe được ở quăng đường này th́ đáng được cấp bằng lái xe quốc tế.” Ngoài ra, mặc dầu được giáo dân quư mến, nhưng v́ hay “đặt vấn đề”, nên không phải lúc nào cha cũng được mọi người hiểu và chia sẻ, nhất là những người chủ trương “ổn định”, kể cả trong hàng lănh đạo của Hội Thánh. Có lần cha tỏ ra trầm ngâm: “Chúa Giêsu đến trần gian thời nào và ở đâu có lẽ cũng bị các nhà lănh đạo từ chối!” Quả thật để có thể tự xưng là người Việt Nam đối với cha không phải là một điều dễ dàng, nhưng cha đă vượt qua được tất cả.

Những năm gần đây, có nhiều dịp cha trở về Việt Nam và tôi thường may mắn được gặp lại cha ở Saigon. Cha mang trong ḷng một ước nguyện cháy bỏng được về ở luôn tại Việt Nam. Thực ra, cha vẫn giúp người Việt Nam ở Canađa và Hoa Kỳ về đời sống thiêng liêng. Nhưng h́nh như cả ở trong các trại tỵ nạn Đông Nam Á đầy bấp bênh hay ở các thành phố Bắc Mỹ đầy tiện nghi, cha vẫn thấy không ở đâu t́m được chất Việt Nam đặc trưng bằng chính tại Việt Nam. Để chuẩn bị ngày trở lại Việt Nam, cha chia sẻ với tôi là cha sẽ dành ra hai năm đi học bồi dưỡng về thần học luân lư để khi nào chính quyền cho phép th́ sẵn sàng trở lại “đi t́m anh em” ngay tại “Việt Nam quê hương tôi”. Tôi hỏi cha c̣n thích lên Bảo Lộc không, cha trả lời ngay: “Đó là quê hương thứ nhất của tôi! Nhưng với thần học luân lư, có thể tôi hữu ích hơn.” Tôi cố mường tượng h́nh ảnh một vị tiến sĩ giáo sư thần học đă hơn 60 tuổi, đă từng là giáo sư của nhiều giáo sư, đă từng lăn lộn trong các trại tỵ nạn, đă từng hướng dẫn Linh Thao bằng tiếng Việt trên đất Mỹ, ngày ngày cắp sách đến lớp... v́ hy vọng một ngày nào đó được trở lại Việt Nam. Tôi nghĩ đến Giêrusalem của thánh I-nhă, vùng Đông Á của thánh Phanxicô Xavier... Cuối cùng tôi hiểu rằng Thiên Chúa tạo ra cho mỗi con người một trái tim và ban cho những người anh em ở đâu đó, phải đi t́m, và khi t́m được ở đâu th́ nơi đó trở thành quê hương của ḿnh.

Tôi gặp cha lần cuối cách đây hơn một năm tại Việt Nam. Được biết cha bị ung thư, tôi hơi băn khoăn, nhưng cha tỏ ra rất b́nh thản: “Bệnh th́ phải chữa, khỏi th́ làm việc tiếp, chết th́ về với Chúa.” Thật đơn giản, nhưng tôi nhận ra điều đó phản ánh rất rơ một nét đặc trưng của tâm hồn người Công Giáo Việt Nam, có lẽ cách riêng là giáo dân miền quê ở Bảo Lộc. Suốt đời cha mong được ở với người Việt Nam, ngay tại đất nước Việt Nam, nhưng những ngày tháng cuối đời cha phải ở xa Việt Nam. Dầu vậy, thực sự trái tim cha vẫn ở giữa những anh em Việt Nam của cha, v́ trái tim ấy đă bị một Chúa Giêsu có lẽ rất Việt Nam chinh phục. Khi được tin cha mất, tôi đang ở xa Việt Nam, nên thấy có được một đồng cảm nào đó với cha. Và tôi nghĩ chính ḿnh sẽ phải tiếp bước cha “đi t́m anh em” ngay trên “Việt Nam quê hương tôi”.

Paris ngày 12 tháng 3 năm 2003
Linh mục Cosma Hoàng Văn Đạt, Ḍng Tên.