ĐH 2003.02 | Số Đặc Biệt - Tưởng Niệm Cha Dominici

 

Trang chính Bao DH 2003 2003-02
.

Chúa Kitô Tị Nạn Nghèo Để Biết Yêu

LM Gildo Dominici, SJ

 
  Một người cha có hai người con. Ông ta đă nói với người con cả: “Này con, hôm nay con hăy đi làm vườn nho.” Nó trả lời: “Con không đi”, nhưng sau đó nó đă hối hận và ra đi. Rồi người Cha nói với đứa con thứ cũng vậy. Nó trả lời “vâng, con sẽ đi”, nhưng nó đă không đi. (Mt.21:28-31).

Đoạn đường từ nhà đến vườn nho rất là ngắn, nhưng cả hai anh em đă không làm điều đó. Bởi v́ trong thâm tâm họ đă không có t́nh yêu đối với cha ḿnh. Khi không có t́nh yêu th́ không một ai và không có điều ǵ lay chuyển được, chỉ có t́nh yêu mới lay chuyển được ḷng người mà thôi!

Một ngày kia, Chúa Cha nói với Chúa Con: “Này con, con xuống thế làm người và chết cho nhân loại.”

Không giống như hai người con kia, Chúa Con vâng lời không chút do dự: Ngài sinh ra tại Bê-lem, đă lớn lên, làm việc và chết cho t́nh yêu.

Ngài đă  đi qua một cuộc hành tŕnh dài từ trời xuống thế.

Ngài đă đi qua một đoạn đường dài từ cuộc sống sung măn tới sự chết.

Ngài đă trải qua một hành tŕnh vô định nhận đời sống di dân từ thiên tính tới nhân tính.

Nhưng Ngài đă hoàn thành v́ Thiên Chúa là T́nh Yêu vô biên.

Chúa Giêsu đă được sinh ra từ một gia đ́nh cha mẹ nghèo, ông Giuse và bà Maria, trong một hang gần Bêlem (Lc. 2:1-20). Ư định của Ngài là sống nghèo như các ông bà đương thời.

Nhưng vài tháng sau khi sinh ra, các nhà chiêm tinh từ phương Đông đến kính bái hài nhi. Họ là những người giàu có và dâng cho Hài Nhi những châu báu quư giá như vàng, mộc dược và nhũ hương (Mt. 2,1-11).

Hài Nhi giàu rồi!

Khi các nhà chiêm tinh đă ra đi, Hài Nhi cựa quậy luôn, ngủ không yên giấc: luôn luôn khóc, thường hay đau, dường như Hài Nhi mất b́nh an.

Buổi chiều, ngay sau các nhà chiêm tinh ra đi chốc lác, có một người phụ nữ lén lút vào trong hang và ghé tai nói th́ thầm với ông Giuse và bà Maria. Bà Maria hối hả thu dọn một ít quần áo, c̣n ông Giuse lo lấy những món quà của các nhà chiêm tinh mà không do dự.

Bà Maria nh́n thấy liền nói cùng ông Giuse:

- Chúng ta hăy bỏ tất cả những thứ này cho người hàng xóm; v́ nó sẽ là gánh nặng cho chúng ta mà thôi.

- Này Maria ơi, đây là món quà mà Thiên Chúa Quan Pḥng đă lo liệu cho chúng ta để sống ở Ai Cập mà!

Bà Maria cảm thấy không thoải mái lắm nhưng không muốn làm trái ư chồng, bà bế Hài Nhi đang khóc và leo lên xe lừa.

Trời âm u, đêm lạnh và ẩm ướt, mưa đă ngừng rồi, nhưng gió lạnh đang từ phương Bắc thổi tới.

Ông Giuse không quen đường ở vùng đất lạ, nhưng người phụ nữ kia đă hướng dẫn ông Giuse và bà Maria cùng Hài Nhi trong đêm tối trên đoạn đường tới Ai Cập.

Hôm sau, lúc hoàng hôn vừa buông xuống, họ đă đến Hebron. Để tránh trạm kiểm soát ở ngay cửa thành, ông Giuse đă rẽ sang trái và đi về miền quê. Nhưng khi ông Giuse vừa vào con đường ṃn nhỏ, từ sau nông trại có hai người cươi ngựa đi tới và chận xe ông Giuse lại, họ là lính của Hêrôđê:

- Này anh chị kia, anh chị là ai? Và đi đâu?

- Chúng tôi là những người nông dân nghèo và chúng tôi đang đi về nhà. Ông Giuse trả lời.

- C̣n em bé bao nhiêu tháng rồi?

- Chỉ được vài tháng.

- Anh chị có biết là vua Hêrôđê đă ra lệnh giết tất cả những đứa trẻ không? Chúng tôi phải giết đứa bé này.

Bà Maria bắt đầu run sợ về những lời nói của tên lính.

- Anh chị chuyên chở cái ǵ trong rương đó?

Một tên lính xông lại gần ḥm vàng và mở tung ra. Mắt trố nh́n và kinh ngạc một lúc lâu. Tên thứ nh́ cũng bước tới.

Hiểu được ḷng tham từ ánh mắt của chúng, bà Maria không bỏ qua cơ hội này, liền bảo chúng:

- Các ông hăy lấy hết vàng đi và đừng giết con chúng tôi.

Không cần phải suy nghĩ, chúng lấy ngay ḥm vàng và bỏ đi. Ông Giuse liếc nh́n họ một cách buồn thảm!

Nhưng chỉ một khoảng đường ngắn, hai tên lính bắt đầu căi nhau. Ông Giuse biết ngay là chúng đang bất đồng về phân chia.

Rồi tiếng la hét của chúng càng ngày càng lớn hơn, bà Maria quay lại nh́n và thấy chúng nó đang đánh nhau. Sau một lúc tranh giành, chúng nó đâm chết nhau.

Hai ông bà nh́n nhau đầy kinh hăi. Ông Giuse nói với Maria: Em làm đúng. Anh chia sẻ với em niềm vui mà chúng ta đă cứu được Giêsu, là nguồn mạch sự sống và thà mất vàng bạc, là nguyên cớ gây oán thù và sự chết.

Sang ngày kế tiếp, hai ông bà phải đi bộ qua những dăy đồi khô cháy của miền Neghev trên con đuờng sa mạc đầy sỏi đá giữa miền Hebron và Bethsheba. Khi đi ngang qua mọt căn nhà, Giuse và Maria chợt nghe một bài thánh vịnh quen thuộc, hai ông bà dừng lại và vào dự kinh chiều.

Ông Ahabel, trưởng hội đường, ra đón hai ông bà và có một người giúp việc ra rửa chân cho ông bà.

Sau kinh tối, ông Ahabel nói cùng Giuse:

- Mời ông bà ở lại đêm nay với chúng tôi.

- Và Giuse trả lời: Cám ơn ḷng tiếp đăi của ông dành cho chúng tôi.

- Và Maria ngỏ lời: Chúng tôi có một ít nhủ hương, xin biếu ông để dùng vào việc phụng thờ.

- Giuse đi lấy những hộp ngủ hương. Bà Maria lại nói tiếp:

- Chúng tôi cũng có nhiều mộc dược nữa. Ông có thể bán để chi tiêu vào việc cộng đoàn.

Ông Ahabel ngạc nhiên về ḷng đại lượng của ông bà, liền trả lời:

- Cám ơn ông bà thật nhiều, nhưng theo ư tôi ông bà nên giữ lại mộc dược, v́ tại vùng biên giới có nhiều cướp bóc. Chắc chắn ông bà sẽ gặp họ, nếu không có ǵ cho chúng, ông bà sẽ bị giết một cách dễ dàng.

Ngày hôm sau, Giuse và Maria băng qua biên giới và bước vào đất Ai Cập. Hai ông bà tiếp tục đi khoảng chừng một tiếng đồng hồ, th́nh ĺnh, từ sau đồi cát, một toán cướp nhào tới chận lối hai ông bà, họ la hét, múa dao, múa gươm và vây quanh xe rồi uy hiếp hai ông bà. Một tên cướp đưa dao vào cổ họng Giuse, một đứa đưa vào bà Maria. Số c̣n lại, chúng nó lục soát t́m kiếm vàng khắp nơi trong xe.

Giuse nói với họ:

- Chúng tôi nghèo lắm. Chúng tôi không có ǵ ngoài một ít mộc dược.

- Tên chỉ huy la lên: Cả xe và lừa nữa!

Sau khi bọn cướp lấy hết đồ đạc và đi khuất, Giuse và Maria nh́n nhau và ôm nhau vui sướng, cả hai quỳ xuống trên cát giữa sa mạc mà tạ ơn Thiên Chúa.

Đó là ngày 25 tháng 12 năm ấy.

Bé Giêsu mừng sinh nhật đầu tiên trong cảnh nghèo hoàn toàn giống như ngày em sinh ra cách đây một năm tại Bêlem. Cha mẹ em mất hết đồ đạc, vàng, xe và lừa. Hai ông bà không c̣n ǵ ngoài em bé Giêsu. Nhưng ông bà lại thấy vui sướng v́ bé Giêsu dường như khỏe lại và b́nh an.

Hai ông bà bắt đầu thả bộ trên con đường cát, đi chừng khoảng hơn một tiếng, gặp một ông lăo râu tóc bạc phơ, mắt sáng ngời, mời hai ông bà về trại của ông nghỉ. Sau khi đăi hai ông bà một bữa cơm thịnh soạn, ông lăo nói với Giuse và Maria:

- Tôi biết hai ông bà là người Do Thái đang đi trốn sự tàn bạo của vua Hêrôđê. Nhưng địch thù lớn nhất của Giêsu không phải là Hêrôđê mà là vàng bạc đă tặng cho em. Hăy nhớ rằng: Thiên Chúa từ trời xuống thế không phải để nhận vàng của nhân loại, nhưng Ngài muốn chia sẻ sự sống sung măn của Ngài với nhân loại. Bây giờ hai ông bà đă trở lại cảnh nghèo nàn, em bé Giêsu đă được hồi phục lại ḷng tự do. Vậy hăy trở về Do Thái và Thiên Chúa chúc lành cho ông bà.

Giuse và Maria đă đi về lại làng Nagiarét (Mt. 2,23).

Bà Maria giữ tất cả những biến cố đó trong ḷng mà suy đi nghĩ lại (Lc. 2:19-51).

***

Ông Đức là một sĩ quan dưới chế độ Cộng Ḥa ở Việt Nam. Ông có một bà vợ thật đẹp và năm đứa con tuyệt vời. Ông làm chủ hai căn nhà ở Saigon, ông hưởng thụ địa vị cao trọng trong xă hội, có uy tín trong quân đội và tương đối giàu có. Ông là người chồng và người cha vui vẻ. Ông đă thành công trong cuộc sống và không c̣n mơ ước ǵ khác hơn nữa là tiến thân trong binh nghiệp.

Và ngày 30 tháng 4 năm 1975 đă đến!

Cuộc sống ông Đức hoàn toàn thay đổi!

Ba tháng sau khi cộng sản chiếm Saigon, ông Đức bị bắt và phải học tập cải tạo. Ông Đức phải chịu những công việc vất vả, học cải tạo, bị đói và cô đơn. Gia đ́nh không được phép đi thăm. Ông Đức bị đưa ra miền Bắc xa xôi, gần biên giới Tàu và bị giam giữ ở đó 13 năm.

Hai năm sau khi ông bị bắt, bà vợ ông đi lấy một người khác. Các con ông tản mác khắp nơi. Cha mẹ và anh em ông đă ở hải ngoại. Công an tịch thu hai căn nhà của ông.

Ông Đức đă mất tất cả!

Khi ra khỏi tù, ông không biết đi về đâu. Ông nói với chính ḿnh: “Tôi đă trơ trụi như khi tôi sinh ra.” Điều làm ông đau khổ nhất là ông không c̣n ai chờ đón và vui mừng ngày trở về của ông!

Ông Đức thật cô đơn và cô độc ... ông mang một nỗi khổ bi đát sâu đậm trong tâm hồn!

Một ngày kia trên phố Saigon, ông Đức gặp lại một trong những người bạn cũ của ông.

- Ồ, ngạc nhiên biết bao khi gặp lại anh. Mời anh đến nhà chơi.

Họ đă về nhà bằng lối khác nhau. Và người bạn nói cho ông biết, người con gái út của ông hiện cũng đang ở Saigon, nhưng đă làm đám cưới với một cán bộ cộng sản.

- Cô ấy bây giờ là cộng sản rồi, đây là lư do tại sao cô không đi thăm anh lúc anh ở tù.

Ông Đức đến thăm con gái. Cô đón tiếp ông lễ phép nhưng không vui. Cuộc gặp gỡ đầy băo tố. Sau một lúc, cô đứng dậy và nói với ông:

- Mười ba năm cải tạo không thay đổi được tư tưởng sai lầm của ba sao? Tôi không c̣n một điểm nào chung với ba được nữa... Cô ta bỏ đi ra!

Ông Đức dường như là một xác chết! Chính lúc này, ông hiểu sâu xa thảm cảnh và sự cô đơn của ông tận đáy ḷng: ông đă thất bại không những như người chiến sĩ, như người chồng nhưng c̣n là người cha nữa. Sự cô độc của ông c̣n bi đát hơn ông nghĩ!

- Tôi không c̣n gia đ́nh nữa: cả con tôi cũng từ bỏ tôi! Chẳng những tôi không c̣n ǵ nữa mà ngay cả chính tôi, tôi cũng không có. Vậy tôi sống làm ǵ nữa? Cuộc đời của tôi vô nghĩa! Ông đă nghĩ đến việc tự tử!

Nhưng một người bà con xa cho tiền ông vượt biên với điều kiện ông đem theo Linh, một người con trai 15 tuổi của họ.

Ông Đức do dự: Đi ra nước ngoài có ích lợi ǵ? Tôi có t́m lại được tinh thần và sức mạnh để bắt đầu một cuộc sống mới không?

Cuối cùng ông chấp nhận v́ ông muốn nói cho thế giới biết thế nào là sự tồi tệ của người cộng sản. Ông đă lên tàu với Linh và 20 người khác nữa. Nhưng thảm kịch lại đến với ông nữa: hải tặc tấn công chiếc tàu của ông. Cướp hết tất cả mọi sự, hăm hiếp phụ nữ và sau đó đánh ch́m chiếc tàu và Linh lại chết đuối. Chỉ c̣n ông Đức và vài người khác nữa c̣n sống sót và đến được Thái Lan. Hiện giờ ông Đức đang ở trong một trại Thái Lan.

Tinh thần ông Đức sa sút. Ông cảm thấy có tội về cái chết của Linh. Ông tức giận Trời Phật.

Tại sao lại tàn bạo với ông như thế? Tại sao cho những thảm kịch đau khổ liên tục xảy ra với ông? Tại sao lại tước đoạt tôi khỏi mọi sự và mọi người? Có rất nhiều người giàu và hạnh phúc. Tại sao tôi mất gia đ́nh rồi lại cắt giảm những thứ khác nữa? Đây là một sự bất công khủng khiếp! Con người không thể sống cô độc trơ trọi một ḿnh được!

Từ khi ra tù ông Đức chưa bao giờ đặt chân đến chùa.

Rồi đêm vọng Giáng Sinh ông Đức đến nhà thờ như bao người khác. Ông nghe một đoạn trong bài đọc, tác động ḷng ông: “Ngài đă đến từ giàu sang và trở nên nghèo hèn!”

- Giống tôi! Ông Đức tự nói.

Những bài thánh ca Giáng Sinh đă gợi lại cho ông nhiều kỷ niệm lai láng. Đă nhiều lần, mặc dù ông là người Phật giáo nhưng ông đă tham dự  lễ đêm Giáng Sinh với vợ con ông. Bây giờ chỉ có một ḿnh ông!

Không kiềm chế cơn xúc động, ông ngồi xuống gốc cây và bắt đầu khóc.

Trên đường về lều, trong bóng tối của những con đuờng trong trại, ông gặp một cậu bé đang ngồi khóc:

- Cháu đang làm ǵ ở đây?

- Cháu nhớ ba mẹ cháu!

- Cháu ở đâu?

- Cháu vừa mới đến đây. Hai chị của cháu bị hải tặc bắt cóc rồi ... cháu muốn trở về nhà ...

- Đi với bác ...

Ông Đức đưa cậu bé về ở chung trại bằng tre của ông và ông lấy cho cậu bé một tô cơm nóng. Sáng hôm sau, ông đến văn pḥng Liên Hiệp Quốc và chùa xin quần áo và thực phẩm cho cậu bé.

Những tuần kế tiếp, ông đi t́m những bé trai và bé gái đi một ḿnh về chăm sóc chúng.

Từ đêm Giáng Sinh đó, dường như ông Đức t́m lại cuộc sống mới, một ư nghĩa mới trong đời sống mới! Trước hết, ông quên dần nỗi buồn, nỗi cô đơn hiu quạnh của ông. Và ngược lại, ông cảm thấy một niềm vui mới, một niềm vui thật sâu xa mà ông chưa bao giờ cảm nghiệm ngay cả với vợ ông. Và ông cảm thấy tràn đầy vui thỏa trong tâm hồn như ông là một con người khác.

Ông tự hỏi: “Tại sao tôi có niềm vui này, tại sao tôi thấy cuộc đời tôi có ư nghĩa?”

Dần dần, ông đă hiểu: Con người chỉ có giá trị như t́nh yêu, ḷng vô vị lợi, sự hổ tương và phục vụ, t́nh huynh đệ và tự do nội tâm ... mới xây dựng nhân cách chúng ta. Chứ không phải sự nghiệp, tiền bạc, danh vọng, đời sống gia đ́nh ...

Lỗi lầm trong quá khứ của ông là sống cho chính ông, cho sự nghiệp, cho hạnh phúc, giàu sang. Ông đă bị mất tất cả, và dẫn đưa ông đến sống cho người khác, thực hành giá trị nhân cách con người.

Ông đă t́m thấy đó là nguồn sức của sự sống, của niềm vui và là ư nghĩa của cuộc đời.

Ông Đức đă đến chùa cám ơn Trời Phật đă soi sáng cho ông khám phá ra niềm vui thật sự này.

Cha chúc các con có cùng cảm nghiệm như Chúa Giêsu và ông Đức. Ước ǵ các con t́m được niềm vui và ư nghĩa trong mùa Giáng Sinh và năm mới tại hải ngoại.

Ghi chú: Đây là lá thư cha Dominici chúc mừng Giáng Sinh cho các bạn ở tại tị nạn Banthad, Thái Lan năm 1989.  Và cha cũng  gởi về Phong Trào Đồng Hành, chúc mừng Giáng Sinh đến tất cả anh chị em.

(Trích trong Đồng Hành, tháng 12 năm 1989)