ĐH 2002.02  |  "Anh Em Là Muối Cho Đời.  Anh Em Là Ánh Sáng Cho Thế Gian."

 

Trang chính Bao DH 2002 2002-02
.

Một Câu Chuyện Về Cá

Đỗ Kim Giao

 
  Tôi có cái thú nuôi cá. Thật ra nói nuôi cá thì không đúng lắm, ngắm cá thì hợp lý hơn. Sau một ngày làm việc mỗi khi về đến nhà thường thường việc đầu tiên của tôi là vội đến hồ cá, nhìn xem gia đình cá của tôi ra sao.

Tôi như cảm thấy một ngày mệt nhọc như tan biến đi khi nhìn thấy đàn cá tụ đến mừng tôi về, cũng như tíu tít chờ tôi thả những mảnh đồ ăn đủ màu xuống hồ. Nhìn đàn cá náo nức chờ ăn tôi cảm thấy mình thật bình an. Cá cần đến tôi để sống, tôi cần đến cá để quên đi giây phút những phiền toái của cuộc đời.

Sự liên kết giữa cá với tôi chỉ giản dị thế thôi. Không phải là chuyện tình lâm ly như những chàng thủy thủ xa nhà thời xa xưa để trái tim mình rung động với tiếng hát ru hồn của những nàng ngư nữ. Hay như anh chàng Tom Hanks chết mê, chết mệt với nàng cá trong phim “Splash”.

Tôi thương những cậu cá đen trắng, những cô cá đủ màu sắc mà tôi có trong hồ cá. Tôi đặt tên chú cá nầy là “hung hăng” vì hết chạy đuổi cô cá nầy, lại tấn công nàng cá khác, không lúc nào nghĩ, không bao giờ biết mệt. Còn cô cá “thùy mỵ” kia lúc nào cũng nép mình bên cạnh đám san hô, sợ ra ngoài bị người ta rượt.  Còn cái anh chàng “hổ lốn” kia thì cái gì cũng đớp, “thượng vàng hạ cám” đều vào miệng anh ta cả.

* * *

 

... Nhớ đến mỗi lúc đi học về quăng đại quyển sách vào một góc nhà, coi hai con cá đá của mình ra sao. Mỗi con mình giữ riêng trong một cái lọ nhỏ, không dám để chung vì sợ nó đá chết nhau. Cũng không dám để gần nhau vì thấy nhau là hai đứa nó “phùng mang trợn mắt” cả ngày, sẽ mệt và mình lại phải tốn nhiều lăng quăng nữa. Mỗi lần đi hớt lăng quăng cho tụi nó ăn cũng mệt đừ người. Tuy lăng quăng chỗ nào cũng có, nhât là ra sau nhà chỗ mấy vũng nước đọng hay ra chỗ mấy cái lu đựng nước mưa để tắm là có. Nhưng lại phải “lọc đi lọc lại” bao nhiêu lần mới có những con lăng quăng nhỏ xíu cho hai con cá mình ăn.

Mỗi lần tan học về nhà đem hai con cá đá gần nhau thấy nó phùng mang trợn mắt như ông Quan Công, ông Trương Phi thấy thật đã đời, quên hết cái khẻ tay đau điếng của thầy giáo vì dám đem con thằn lằn bỏ vào cặp sách của con Mai. Cho bỏ ghét cứ tưởng là mình đẹp lắm, đến lúc nhìn thấy con thằn lằn, nhảy hét như bị ma rượt thật đáng đời.

Hai con cá nầy đã làm cho mình quên đau tuy bàn tay vẫn còn sưng phù. Cái con Mai nầy nếu vẫn chưa chừa cái tánh hách dịch, thì lần sau mình dúi vào cặp một chú chuột nhắt thì chắc cũng phải chừa. Khi nào mình còn hai chú cá đá nầy thì mình vẫn còn thuốc chữa đau, lo gì.

* * *

 

Nhưng có chuyện gì mà vui được mãi đâu, dù là câu chuyện giữa tôi và cá. Làm sao mà không buồn được khi sáng đi làm thì “thùy mỵ”, “hung hăng”, “hổ lốn” vẫn còn vui vẻ tung tăng. Nhưng buổi chiều về thì “hổ lốn” đã nằm phơi bụng trên mặt nước, “hung hăng” đã không còn xông xáo nữa, mà “lặng đờ” trong một góc tối bên cạnh dãy san hô. Hồ cá không còn là một nơi cho tôi sự bình an khi không còn “thùy mỵ” khi mất đi “hung hăng.” Đã biết bao lần tôi vội vã chạy ra tiệm cá thay thế “thùy mỵ” nầy bằng “thùy mỵ” khác, “hung hăng” nầy bằng “hung hăng” kia.

Những người khách đến nhà tôi chơi, thường khen tôi có một hồ cá đẹp với những con cá xinh đẹp đủ màu. Chẳng có ai nhìn thấy cảnh tôi phải “hớt” bỏ đi những con cá thân thuộc yêu thương, phải vội đi mua những thay thế khác đê hồ cá lúc nào cũng vui, cho mình có những giây phút khuây khỏa sau một ngày bon chen.

Nhiều khi tôi tự hỏi mình phải làm gì để có thể giữ “thùy mỵ”, “hung hăng” lâu dài hơn với mình. Tại sao tôi săn sóc ân cần lo lắng như thế nhưng mà “tình cá” vẫn bỏ tôi đi.

* * *

 

... Thằng Hưng, thằng Bao mới được về nghỉ phép. Tụi mình phải lên Biên Hòa làm một buổi nhậu cá hấp mới được. Bảy thằng “Ngự Lâm Pháo Thủ” thì nay chỉ còn ba đứa. Thằng thì tan xác nơi xó rừng nầy, thằng thì phơi thây nơi đồi núi kia.

Bây giờ mỗi lần gặp nhau thì mừng vì biết mình còn sống, nhưng nhớ nhiều đến những đứa không có mặt. Cái bàn trong góc tiệm vẫn còn đó, bảy cái ghế vẫn còn đó. Nhưng ba đứa ngồi thấy sao nó buồn, nó lạnh lẽo quá.

Tao nhìn đến con cá hấp mà nhớ đến từng khuôn mặt, từng lời nói, từng kỷ niệm vui buồn mà tụi mình có với nhau từ lúc còn học chung tại trường Văn Lang. Những buổi tối cà phê tại quán cà phê Văn Hoa. Những ngày cuối tuần ở Brodard � ngắm người.

Tao thích cá phải chăng vì trong tiềm thức tao không thể nào quên bảy người “Ngư Lâm Pháo Thủ”, không thể nào quên tụi mầy.

* * *

 

Tôi trở thành khách hàng quen thuộc của những tiệm cá. Một hai tuần không thấy tôi đến mua cá là họ đã nhắc rồi. Một hôm có một chú bé giúp việc cho một tiệm cá hỏi tôi, “Tại sao chú mua cá nhiều thế?” Tôi trả lời là vì không biết lựa cá tốt. Mua về một thời gian ngắn là chết dù săn sóc kỹ mấy cũng vậy.

Cậu bé hỏi tôi, “Chú có cho cá ăn nhiều không?”  Tôi trả lời cậu bé là lúc nào cũng cho cá ăn thật đầy đủ, thật nhiều, có khi một ngày hai ba lần.

Cậu bé lắc đầu nói, “Đó là lý do cá chết đó chú ơi! Cá chết là vì bội thực đó. Mỗi lần cá thấy người quen là mừng. Nếu chú nghĩ rằng cá đến xin ăn là chú đã giết cá đó!”

Bài học đơn sơ về nghệ thuật nuôi cá của cậu bé đã làm cho tôi xét lại quan niệm về yêu cá của tôi. Tôi cho cá ăn là vì tôi thương tôi chớ đâu phải tôi thương cá. Tôi muốn cá ăn nhiều để được khỏe manh, để “thùy mỵ”mãi mãi là “thùy mỵ” để “hung hăng”lúc nào cũng “hung hăng”. Có bao giờ tôi nghĩ đến người trước khi nghĩ đến mình chưa?

* * *

 

... Người bảo ông Simon: Chèo ra chỗ nước sâu mà thả lưới bắt cá. Ông Simon đáp: Thưa thầy, chúng tôi đã vất vả mà không bắt được gì cả. Nhưng dựa vào lời Thầy, tôi sẽ thả lưới. Họ đã làm như vậy, và bắt được rất nhiều cá, đến nổi hầu như rách cả lưới. (Luca 5:4-6)

Lạy Chúa, tuy phải miễn cưỡng nghe lời Chúa, nhưng kết quả không ai có thể phủ nhận được. Cá nặng gần rách cả lưới, tình yêu nhận được từ Chúa quá nhiều, quá đầy tràn.

Lạy Chúa, con phải biết tập nghe lời Chúa. Con phải biết tin tưởng vào tình yêu Chúa.

Con phải biết yêu con ít đi, yêu người nhiều hơn, thì sẽ được yêu lại nhiều hơn gấp bội như mẻ lưới cá, mà các tông đồ đã lưới được vì đã tin Chúa vì đã yêu Chúa.

Từ khi học được nghệ thuật nuôi cá của cậu bé, những “thùy mỵ”, “hung hăng” đã tung tăng bơi lội nhiều hơn, tôi cũng “cần kiệm” được hơn một tí vì không phải ra các tiệm cá nhiều như xưa. Mỗi lần đi làm về, tôi vẫn chạy vội tới hồ cá nhưng không phải để cho cá ăn, những chỉ để hỏi thăm “thùymỵ”, “hung hăng” có nhớ tôi không. Chắc là phải nhớ vì đã tíu tít mừng đón tôi về.

“Kẽ nào yêu mến ta nhiều, thì sẽ được yêu mến nhiều” (Luca:7)